Khác với động vật trên cạn, động vật sống dưới nước khi bị bệnh không thể cứu chữa được mà phải tính cả xuống ao hoặc cân cá để trị bệnh nên khó tính được trọng lượng thuốc chính xác, lại tốn kém. Một số loại thuốc có thể điều trị cho động vật thủy sản để tiêu diệt nguồn bệnh nhưng có tác dụng phụ. Đặc biệt, số trẻ khỏe mạnh cũng sử dụng ma túy nên ảnh hưởng đến tăng trưởng. Chính vì vậy chúng tôi luôn đặt vấn đề phòng bệnh là chính, chữa bệnh khi cần thiết … Trong bài viết này, hãy chúng tôi cùng tìm hiểu những bệnh của cá mè trắng để phòng và điều trị tốt nhất nhé.
Những căn bệnh mà người nuôi cá mè trắng nên chú ý
Trong bài viết này hãy cùng chúng tôi tìm hiểu các bệnh nuôi cá mè trắng, các triệu chứng lâm sàng, nguyên nhân cũng như cách chữa trị tốt nhé! Để tránh dịch bệnh và giúp tăng năng suất, mật độ nuôi cá, bạn nên dùng ống tạo oxy đáy để cung cấp oxy và cải thiện môi trường nước.
Bệnh đóng dấu (bệnh nát da) ở cá mè trắng
Nguyên nhân: Khuẩn đơn bào khí dạng chấm.
Triệu chứng lâm sàng: Bệnh thường ở hai bên hậu môn cá bị bệnh. Ngoài da xuất hiện ban đỏ, dạng mục bọc, vảy rụng ra, thịt dần dần nát. Xung quanh ở bệnh xung huyết phát đỏ. Thành hình tròn hoặc hình bầu dục. Giống như đóng dấu màu đỏ lên bề mặt da cá, thường gọi là ‘bệnh đóng dấu’. Cá bị bệnh kém ăn, gầy yếu mà chết.
Quy luật dịch bệnh: Bện này quanh năm nhưng nặng vào hai mùa hạ và thu. Nhiệt độ nước 28 đến 32 độ C là đỉnh cao, từ cá giống cho đến cá lớn đều có thể lây nhiễm, tỷ lệ phát bệnh 70%.
Phương pháp dự phòng
Vào mùa nhiệt độ tương đối cao, ao hồ luôn thay nước mới. Đối với ao cá chất nước kém, cứ tình hình mà dùng vôi bột 20g/mét khối xả toàn ao.
Mùa phát bệnh, dùng bột tẩy (chlorinated lime) hoặc dùng chlorine dioxide 8%. Hoặc sodium dichlorisocyanurate 20% hoặc sodium triechlorisocyanurate 30% dùng 1 lần là 1 – 1,5g/mét khối hoặc 0,1 – 0,3g/mét khối hoặc 0,3 – 0,6g/mét khối, hoặc 0,2 – 0,5g/mét khối 15 ngày 1 lần.
Phương pháp trị liệu
Phương pháp trị liệu: Dung dịch bromoamine benzene. Lượng dùng 1 lần 0,25g/mét khối, cách 2 – 3 ngày 1 lần, xả toàn ao, liên tục 2 lần.
Bệnh trắng da (bệnh trắng đuôi) ở cá mè trắng
Nguyên nhân: Trực khuẩn bạch bì cực mao.
Triệu chứng lâm sàng: Gốc đuôi hoặc chân vây lưng xuất hiện chấm trắng nhỏ, sau lây lan đến thân mặt sau gốc vây lưng, làm cho bề mặt nửa phần sau của cá thành màu trắng.
Quy luật dịch bệnh: Dịch bệnh lan truyền vào tháng 6 đến 8, chủ yếu nguy hại cá bột và cá giống, tỷ lệ chết 50%. Từ khi phát bệnh đến lúc chết chỉ 2 – 3 ngày. Nguyên nhân bệnh do kéo lưới, sàng lọc, vận chuyển, thao tác không cẩn thận, làm cho thân cá sau khi bị tổn thương vi khuẩn lây nhiễm gây ra.
Phương pháp dự phòng
Tiêu độc triệt để ao, cải thiện chất nước và chất đáy ao, bảo đảm môi trường sinh thái tốt cho ao.
Tuân thủ quy trình thao tác kỹ thuật nuôi cá, tránh cá bị thương tổn.
Mùa bệnh lây lan, dùng bột tẩy hoặc sodium dichlorisocyanurate 20%, hoặc sodium triechlorisocyanurate 30%, hoặc chlorine dioxide 8%, lượng dùng 1 lần từ 1 – 1,5g/mét khối, hoặc 0,3 – 0,6g/mét khối, hoặc 0,2 – 0,5g/mét khối, hoặc 0,1 – 0,3g/mét khối, xả toàn ao 15 ngày 1 lần.
Phương pháp trị liệu
Dùng thiaphenicol, mỗi kg thức ăn một lần cho thêm 2 – 3g trộn đều vào thức ăn, một ngày 1 lần, dùng liền 3 – 5 ngày.
Bromanie benzene lượng dùng 1 lần 1 – 1,5mg/mét khối, sau khi dùng nước pha loãng xả xuống ao, cách 2 – 3 ngày xả 1 lần, dùng liền 2 – 3 lần.
Dùng chlorine dioxide 8% lượng dùng 1 lần 0,15g/mét khối, sau khi dùng nước pha loãng xả xuống toàn ao, khi nghiêm trọng cách ngày dùng 1 lần; đồng thời dùng bột vitamin C Natrium, mỗi kg thức ăn mỗi lần cho thêm 2g trộn đều với thức ăn, một ngày 1 lần dùng liền 3 – 5 ngày, lần đầu dùng thuốc tăng gấp đôi lượng thuốc.
Bệnh sán móc (bệnh giun kim, bệnh há miệng) ở cá mè trắng
Nguyên nhân: Sán móc da dạng.
Triệu chứng lâm sàng: Sán móc chủ yếu ký sinh ở bên ngoài thân cá, vây và xoang miệng, phần đầu sán cắm vào trong thịt của cá hoặc dưới vảy để hút dinh dưỡng. Khi lượng lớn sán ký sinh, cá bị bệnh có biểu hiện nôn nao, bất an, ăn giảm, thân hình gầy yếu, bơi chậm cho đến khi chết. Có thể nhìn thấy thân con sán dạng kim, giống như xâu kim vào thân cá, tục gọi là ‘bệnh giun kim’; nếu sán ký sinh trong xoang miệng, gây ra khó ăn, tục gọi là ‘bệnh há miệng’.
Quy luật dịch bệnh: Phạm vi rộng, nhiệt độ nước 12 đến 33 độ C. Thích hợp nhất 20 đến 25 độ C. Khi ấu trừng sán móc ở trong nước lượng lớn, tỷ lệ lây nhiễm sán nhanh chóng tăng lên, đặc biệt là giai đoạn cá nhỏ, cá giống lây nhiễm có tính bạo phát. Làm cho lượng lớn cá chết. Mùa dịch từ tháng 4 đến 11, mùa thu phát bệnh nghiêm trọng.
Phương pháp dự phòng
Trước khi thả nuôi, dùng vôi bột làm sạch triệt để đáy ao, tiêu diệt sán lớn và trứng sán trong nước. KHi còn nước vệ sinh cao, lượng vôi cần dùng là 150kg/mẫu (667 mét vuông) (nước sâu 1 mét).
Dùng khử trùng tán trộn với thức ăn cho ăn. Mỗi kg thức ăn mỗi lần cho thêm 0,2g, dùng liền 2 ngày, mỗi tháng dùng thuốc 1-2 lần.
Mùa đỉnh cao phát bệnh, dùng diterex tinh chế 80% xả toàn ao. Lượng dùng 1 lần là 0,5g/mét khối, 15 ngày 1 lần, dùng liên tục 2 – 3 lần.
Phương pháp trị liệu
Dùng bột phoxim, lượng dùng 1 lần là 0,01 – 0,02g/mét khối, xả đều hoặc phun đều toàn ao 1 lần.
Dùng cyanide chlorid alnester. Lượng dùng 1 lần là 0,02 – 0,03 ml/mét khối xả toàn ao hoặc phun 1 lần. Sau 24 giờ dùng sodium chlorisocyanurate. Lượng dùng 1 lần là 0,2 – 0,33g/mét khối, xả toàn ao một lần.
Bệnh giun myxospore (bệnh cuồng) ở cá mè trắng
Nguyên nhân: Điển bào trùng cá mè.
Triệu chứng lâm sàng: Điển bào trùng ký sinh ở các mô bộ phận cá mè, chủ yếu là ở hệ thần kinh và cơ quan cảm giác. Khi lây nhiễm nghiêm trọng thân cá bị bệnh gầy yếu, đầu to đuôi nhỏ. Trên phần đuôi và thân cá màu tối không sáng. Bụng tích nước, gan, tì co rút. Cá bị bệnh tách đàn bơi riêng lẻ hoặc quay cuồng, luôn nhảy ra khỏi mặt nước, kiệt sức mà chết.
Quy luật dịch bệnh: Chủ yếu nguy hại cá mè 1 tuổi, có thể gây ra chết lượng lớn. Mùa dịch là từ tháng 6 đến 10, tháng 6 đến 9 là thời kỳ dinh dưỡng của giun, sau tháng 10 dần hình thành nang bào.
Phương pháp dự phòng
Loại trừ bùn quá nhiều ở đáy ao và tiến hành phơi nắng.
Dùng vôi bột làm sạch triệt để đáy ao. Tiêu diệt trứng giun trong bùn ao. Lượng dùng vôi bột 1 lần là 125 – 150kg/mẫu (667 mét vuông).
Mùa bệnh lan truyền, dùng dung dịch naphthenic acid ketone xả toàn ao. Lượng dùng 1 lần là 0,045 – 0,06g/mét vuông, 1 tháng 1 lần.
Phương pháp trị liệu
Phương pháp trị liệu: Bột chloroguanide hydrochloride. Mỗi kg thức ăn mỗi lần cho thêm 8g trộn đều cho ăn, 1 ngày 1 lần. Dùng liền 3 – 5 ngày, cá giống giảm một nửa.
Lời kết
Bệnh ở những thủy sản rất khó chữa trị vì chúng sinh sống ở dưới sông và chúng ta không biết được tỷ lệ cá bị bệnh là bao nhiêu. Số lượng cá bệnh là cá lớn hay cá bé. Vì việc điều trị rất khó khăn nên chúng ta cần phải hiểu thêm những căn bệnh mà cá mè trắng mắc phải. Để chúng ta có thể phòng ngừa 1 cách tốt nhất có thể. Chúng tôi mong rằng với bài viết này bà con đã nắm cách chữa một số bệnh nuôi cá mè trắng thông dụng. Chúc vui khoẻ và thành công!