Cá rô phi là tên gọi chung của một nhóm cá nước ngọt thông thường, nhưng một số loài cũng có thể sống ở môi trường sống nước lợ hoặc nước mặn, chủ yếu ở sông, kênh, rạch, ao, hồ. [đầu tiên]. Đây là một loài cá trong họ Cichlidae, gồm nhiều loài, có nguồn gốc từ châu Phi và Trung Đông. Trong số các loài đặc hữu của họ cá này có cá rô phi đỏ (Oreochromis sp), cá rô phi xanh (Oreochromis aureus) và cá rô phi sọc (Oreochromis niloticus). Là loài cá có giá trị kinh tế và phổ biến trong khẩu phần ăn, cá rô phi đã được du nhập vào nhiều nơi và nhiều loài trở thành loài xâm hại. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu cụ thể một số căn bệnh thường gặp trên cá rô phi trong bài viết dưới đây nhé.
Hội chứng MAS (Motile Aeromonas Septicaemia) của cá rô phi
Hội chứng MAS gây ra bởi Aeromonas hydrophila và các loài liên quan. Đây là một loài vi khuẩn Gram âm dị dưỡng, hình que chủ yếu được tìm thấy trong các khu vực có khí hậu ấm áp. Aeromonas hydrophila còn được biết đến với tên gọi là “vi khuẩn ăn thịt người”.

Cá mắc bệnh có biểu hiện bơi mất cân bằng; bơi lờ đờ; thở trên bề mặt nước; vây và da bị xuất huyết hoặc viêm; mắt lồi; giác mạc mờ đục; bụng sưng chứa chất lỏng đục hoặc có máu; tỷ lệ tử vong hằng ngày thấp.
Điều trị: Sát trùng ao bằng KMnO4 ở mức 2-4 mg/lít hoặc tắm cá bệnh trong 4-10 mg/ lít trong 1 giờ; có thể sử dụng thuốc kháng sinh để điều trị nhưng phải tham vấn ý kiến của chuyên gia.
Căn bệnh rung giật (Vibriosis) trên cá rô phi
Vibrio anguillarum và các loài khác. Là loài vi khuẩn gram âm có hình que cong. Vibrio là một các loại vi khuẩn phổ biến và đang gây tổn hại nghiêm trọng cho ngành nuôi trồng thủy sản và các ngành công nghiệp đánh bắt cá.
Bệnh rung giật có biểu hiện tương tự như hội chứng MAS; Bệnh được ghi nhận kèm với các biến động môi trường như chất lượng nước kém hoặc căng thẳng trong bầy đàn.
Điều trị: Theo các nghiên cứu được công bố, giải pháp tốt nhất để điều trị bệnh rung giật trên cá rô phi là sử dụng kháng sinh trong thức ăn. Tuy nhiên chúng tôi đặc biệt khuyến cáo rằng, cần tham vấn ý kiến chuyên gia trong việc dùng kháng sinh để mang lại hiệu quả tốt nhất.
Căn bệnh Columnaris trên cá rô phi
Bệnh do vi khuẩn Flavobacterium columnare, là một loại vi khuẩn dạng que Gram âm thuộc chi Flavobacterium. Tên này bắt nguồn từ cách mà loại này phát triển trong sự hình thành cột “thân rễ”. Vi khuẩn này cũng được coi là tác nhân gây bệnh quan trọng trong nghề nuôi cá rô phi.
Cá nhiễm vi khuẩn này biểu hiện vây bị sờn và/hoặc có các mảng trắng không đều đến xám trên da và/hoặc vây; tổn thương, màu sắc nhợt nhạt, hoại tử trên mang.
Điều trị: Có thể sử dụng phương pháp sát trùng bằng KMnO4 như với Hội chứng MAS; hoặc sử dụng CuSO4 ở mức 0,5-3 mg / lít, tùy thuộc vào độ kiềm của ao nuôi.
Căn bệnh Edwardsiellosis trên cá rô phi
Vi khuẩn Edwardsiella tarda là tác nhân chính gây bệnh. Đây là loại kỵ khí tùy ý, nhỏ, dễ vận động, gram âm, hình que thẳng.
Cá rô phi nhiễm bệnh ít có triệu chứng bên ngoài; chảy máu, hoặc có dịch máu trong khoang cơ thể; gan nhợt nhạt, lốm đốm; sưng, lá lách đỏ sẫm; thận sưng, mềm.
Điều trị: Cân nhắc khi sử dụng kháng sinh trong thức ăn cho cá khi phát hiện bệnh. Cũng cần lưu ý tới lượng kháng sinh khi dùng và thời gian trữ cá trong ao trước khi bán thương phẩm.
Căn bệnh do liên cầu khuẩn gây ra
Tác nhân gây bệnh gồm 2 loài chính gây bệnh là Streptococcus iniae và Enterococcus sp. là vi khuẩn Gram dương xâm nhập và gây bệnh trên cá rô phi bố mẹ và cá rô phi từ 50 – 300g.
Nhiệt độ thích hợp cho bệnh liên cầu khuẩn trên cá rô phi phát triển là từ 25 – 350C, trong đó phát triển mạnh nhất khi nhiệt độ nước trên 300C. Những ao có tỷ lệ cá chết cao là những ao ô nhiễm và giàu chất hữu cơ, tỷ lệ chết có thể lên tới 80% trong thời gian ngắn, tuy nhiên khi nhiệt độ xuống thấp tỷ lệ tử vong lại giảm.

Cá nhiễm bệnh có biểu hiện hôn mê, bơi thất thường; nám da, sẫm màu; mắt cá bị lồi một bên và trên mắt kéo một lớp màng màu trắng đục; trướng bụng; xuất huyết ruột, xung quanh miệng, hậu môn và vây; lá lách to, gần như đen; tỷ lệ tử vong cao.
Điều trị: Có thể sử dụng kháng sinh trong thức ăn dưới sự tư vấn, theo dõi từ chuyên gia. Liều khuyến cáo Erythromycin ở mức 50mg/kg cá/ngày trong 12 ngày.
Bệnh xuất huyết do cầu khuẩn Streptococcus sp
Khi cá mắc bệnh, đầu tiên cá yếu bơi lờ đờ, kém ăn hoặc bỏ ăn, hậu môn, gốc vây chuyển màu đỏ; mắt, mang, cơ quan nội tạng và cơ xuất huyết; máu loãng; gan, thận, lá lách mềm nhũn. Cá bệnh nặng bơi quay tròn không định hướng, mắt đục và lồi ra, bụng trương to.
Phòng trị bệnh bằng cách bón vôi bột hoặc vôi tôi cho ao nuôi với liều lượng 1-2kg/100m3 (2 – 4 lần/tháng). Dùng thuốc kháng sinh Erythromyxin hoặc thuốc KN-04-12 trộn vào thức ăn cho cá với liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất và cho cá ăn 5-7 ngày liên tục. Sử dụng Vitamin C để tăng sức đề kháng phòng bệnh cho cá.