Cá song và cá bớp là hai loài được nuôi phổ biến ở vùng ven biển Bắc Bộ, đặc biệt là Hải Phòng và Quảng Ninh. Do môi trường nuôi ngày càng ô nhiễm, dịch bệnh thường xuyên xảy ra làm giảm năng suất nuôi cá. Để giúp bà con chăn nuôi chủ động phòng bệnh cho cá và nâng cao hiệu quả nuôi trong vụ hè thu, chúng tôi xin giới thiệu một số bệnh thường gặp trên cá song, cá bớp nuôi biển và các biện pháp phòng trị. Nếu bạn đọc đang có nhu cầu tìm hiểu về cách phòng chống các bệnh phổ biến trên cá song thì bài viết này sẽ giúp ích cho bạn.
Cách phòng và chữa bệnh do virus
Thường gặp là hội chứng VNN (Viral Neutral Necropsis) Đây là loại bệnh nguy hiểm nhất. Thường xảy ra đối cá song giai đoạn ấu trùng và chuyển biến thái. Triệu trứng thường gặp là cá bơi mất phương hướng, nổi lập lờ trên mặt và thường chết hàng loạt. Các cơ quan bị nhiễm thường gồm não bộ và mắt. Đối với bệnh do virus cá thường có tỷ lệ chết cao và nhanh.

Cách phòng bệnh: Cá mắc bệnh do virus thì không chữa trị được, chủ yếu là phòng bệnh. Một số biện pháp phòng bệnh cần áp dụng là kiểm tra virus cho đàn cá bố mẹ và cá giống để có con giống sạch bệnh. Hạn chế lây truyền theo chiều dọc. Trong các khâu sản xuất cần đảm bảo vệ sinh, an toàn sinh học để hạn chế lây truyền theo chiều ngang. Ngoài ra, cần cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cá. Tránh làm sốc cá khi vận chuyển và thả giống. Nuôi với mật độ vừa phải để tăng cường khả năng kháng bệnh của cá.
Bệnh đốm trắng hay bệnh trùng lông
Phòng bệnh: Ương cá với mật độ vừa phải, cần lọc nước trước khi đưa vào bể ương sẽ có tác dụng tốt trong việc hạn chế tác nhân gây bệnh.
Trị bệnh: Có thể điều trị bằng cách tắm nước ngọt trong thời gian từ 20 – 30 phút và lặp lại trong 3 ngày liên tục. Tuy nhiên, việc tắm cá liên tục bằng nước ngọt cũng tạo điều kiện cho trùng lông thích ứng với nước ngọt và có khả năng sống sót. Vì vậy, việc kết hợp tắm cá bằng nước ngọt và hoá chất mang lại hiệu quả điều trị bệnh cao hơn. Một số loại hoá chất có thể sử dụng điều trị bệnh đốm trắng như formalin, chlorin và ôxy già.
Các bệnh do vi khuẩn Vibrio
Cá song chủ yếu bị bệnh lở loét, vây bị rữa, xuất huyết dưới da, có khối u, màu sắc đậm, mắt đục, mắt lồi có xuất huyết, tỷ lệ chết có thể >80%.
- Nguyên nhân: Đã phân lập được một số loài Vibrio. Trong đó có hai loài V. alginolyticus và V. vulnificus và 1 loài Pseudomonas sp. Hai nhóm vi khuẩn Vibrio spp, Pseudomonas sp luôn luôn tồn tại trong nước biển. Khi điều kiện môi trường thay đổi xấu làm sức đề kháng giảm, vi khuẩn sẽ xâm nhập vào cá và gây bệnh.
- Phòng bệnh: Duy trì mật độ cá thích hợp trong hệ thống nuôi. Cng đó là sự lưu thông nước cho lồng nuôi bằng cách vệ sinh vật bám, thức ăn tươi hoặc nhân tạo phải được bảo quản tốt. Định kỳ tắm nước ngọt khi có nguy cơ nhiễm bệnh cao.
- Trị bệnh: Dùng kháng sinh Oxytetracyclin tắm với liều lượng 50 – 100 g/m3 nước trong 1 giờ. Dùng liên tục trong 7 – 10 ngày. Kết hợp cho ăn 100 -150 mg/kg thức ăn. Khi bệnh diễn biến xấu có thể tắm formalin và chuyển cá sang ao khác.
Các loại bệnh có nguồn gốc từ ký sinh trùng

Bệnh thường gặp ở cá giống, hoặc cá nuôi thương phẩm trong ao đìa. Các dấu hiệu là mang có màu nhạt, cá hay cọ mình vào vật cứng. Tạo nhiều niêm dịch trên mang và bề mặt da. Cá yếu trong thời kỳ nhiễm bệnh. Một số loài ký sinh trùng sẽ phá hủy các mô của ký chủ. Tạo dịch nhày bám trên mang gây khó khăn cho hô hấp của cá. Khi bị nặng cá có thể bị chết hàng loạt.
- Nguyên nhân: Tác nhân do các loại ký sinh trùng như Protozoa, giun dẹp, giun tròn, giáp xác, đỉa… Một phần do quản lý môi trường nuôi kém, nước không được xử lý hoặc có lượng chất hữu cơ cao, nuôi ít thay nước, chăm sóc kém.
- Trị bệnh: Định kỳ tắm cá trong dung dịch Iodine, Formalin, hoặc Ôxy già, nước ngọt.