Hội chứng gà đẻ trứng (EDS) do một loại vi rút adenovirus phân nhóm III gây ra. Về mặt huyết thanh học, vi rút này không liên quan đến vi rút thuộc phân nhóm I và II. Giảm đẻ, trứng bị bong tróc hoặc vỏ mỏng hơn so với gà bình thường. Bệnh được báo cáo bởi Van Eck vào 1976 với gà đẻ ở Hà Lan. Hội chứng do vi rút gây ra nguyên nhân dẫn đến suy giảm gà đẻ do virus DNA (EDSV) thuộc họ Adenoviridae gây ra. EDSV tương đối bền với chloroform và hỗ trợ giá trị pH từ 3 đến 10. Ở nhiệt độ: vi rút bị bất hoạt sau 30 phút ở 60 ° C và sau 3 giờ ở 56 ° C. Sau đây hãy cùng tìm hiểu thêm thông tin các bệnh ở gà qua bài viết sau.
Hội chứng giảm đẻ 1976 bệnh truyền nhiễm ở gà mái làm giảm số lượng trứng
Hội chứng giảm đẻ 1976 (EDS 76: Egg Drop Syndrome) là bệnh truyền nhiễm trên gà mái và tác động lên sản lượng trứng của chúng.
Hội chứng giảm đẻ 1976 (EDS 76: Egg Drop Syndrome) là bệnh truyền nhiễm trên gà mái. Làm số lượng trứng giảm rất nhanh, gà không đạt được đỉnh sản xuất trứng cao nhất; hình dạng trứng không ổn định, trứng chỉ có vỏ lụa hay vỏ can-xi mỏng và mất màu vỏ trứng. Tác nhân gây bệnh là một virus adeno (adenovirus) của nhóm III. Sư lan truyền mầm bệnh giữa các gà trong kiểu nuôi chuồng lồng khá chậm. Tuy nhiên lại rất nhanh trong kiểu nuôi sàn.
Dấu hiện đầu tiên của bệnh là sự mất sắc tố trứng. Rất nhanh sau đó trứng sẽ chỉ còn vỏ lụa hay có vỏ can-xi bị biến dạng. Nếu các trứng này bị loại bỏ thì các trứng còn lại vẫn thụ tinh hay ấp nở bình thường. Gà giảm đẻ trứng có thể chỉ trong một thời gian ngắn hoặc kéo dài một thời gian (thông thường kéo dài khoảng 4 đến 10 tuần) và số lượng trứng giảm khoảng 40%.
Tác nhân gây bệnh và dấu hiệu nhận biết gà bị nhiễm hội chứng giảm đẻ
Tác nhân gây bệnh chỉ làm buồng trứng không hoạt động và teo ống dẫn trứng. Ngoài ra không tìm thấy các bệnh tích khác. Vi-rút nhân lên ở tế bào biểu mô trong các tuyến của ống dẫn trứng. Dẫn đến hiện tượng viêm nghiêm trọng và phát triển không đồng đều ở lớp niêm mạc.
Khi thấy xuất hiện các trứng có hình dạng không bình thường và số lượng trứng giảm thì có thể nghi ngờ gà đang bị bệnh EDS 76.
Để chuẩn đoán chính xác, sau khi phân lập và xác định vi-rút. Nên làm tiếp chuẩn đoán huyết thanh học. Trong vài trường hợp, kháng thể chỉ được tìm thấy trong đàn bị nhiễm. Khi mức trứng sản xuất đạt được nằm giữa khoảng mức 50% và đỉnh sản xuất cao nhất.
Kết luận
Chọn gà giống từ những cơ sở giống chất lượng, không bị nhiễm virus, gà con phải được chọn từ những đàn gà được tiêm phòng cẩn thận. Vệ sinh đúng kỹ thuật trong quá trình chăn nuôi, vận chuyển trứng, quá trình tiêm phòng. Nuôi vịt, ngỗng cách xa khu nuôi gà. Hiện nay chưa có thuốc điều trị bệnh Hội chứng giảm đẻ ở gà.
Bổ sung thuốc bổ, vitamin, tăng hàm lượng canxi và protein trong khẩu phần cho gà đẻ, gà giống để tăng năng suất đẻ và tăng chất lượng trứng. Hội chứng giảm đẻ ở gà là một bệnh truyền nhiễm tác động trực tiếp đến sản lượng trứng cung cấp ra thị trường. Người chăn nuôi cần chủ động phòng ngừa dịch bệnh, định kỳ xét nghiệm bằng kỹ thuật iiPCR để phát hiện và xử lý kịp thời.